Phân loại phương pháp hàn điện tiếp xúc

Hàn điện tiếp xúc thường là chia ra làm ba phương pháp hàn chủ yếu, đó là: hàn đối đầu (hàn giáp mối), thường là hàn đường và hàn điểm.

Hàn đối đầu (hàn giáp mối)
Phương pháp hàn giáp mối thường là gồm có: hàn điện trở (không nóng chảy) và phương pháp hàn nóng chảy.
Phương pháp hàn điện trở (không nóng chảy): Các đầu chi tiết thường là  hàn tiếp xúc với nhau, cùng với một lực ép nhẹ và thường là được nung nóng nhờ dòng điện đi qua chỗ tiếp xúc và kim loại tại đây thường là đạt tới 1 trạng thái dẻo; tiếp đó ngắt dòng điện và ép cho hai chi tiết dính lại thường là với nhau trở thành một khối (Hình 11.14 - a - A). Phương pháp hàn này thường được dùng để hàn thường là thép ít Cacbon và kim loại màu có bề mặt phẳng và sạch, diện tích bề mặt thường là không vượt quá 1000mm2. Khi dùng máy hàn TIG hàn các mặt lớn bằng phương pháp hàn này thường là thì hơi khó có mối hàn tốt vì việc nung nóng các chi tiết sẽ không đều thường là nếu bề mặt tiếp xúc quá lớn.
Nhược điểm của phương pháp thường là hàn này đó là cho năng suất kém hơn nhiều so với một số phương pháp hàn khác.
Phương pháp hàn chảy: thường là dùng cho các mặt chi tiết hàn không bằng phẳng, được áp lại gần nhau, lúc đó trên bề mặt tiếp xúc thường là chỉ có các phần nhấp nhô bề mặt tiếp xúc, bởi vậy, khi có dòng điện chạy qua, thường là ở đó sẽ có mật độ điện trở lớn mà diện tích tiếp xúc nhỏ cho nên chỗ hàn thường là lập tức bị đốt nóng chảy. Kim loại nóng chảy sẽ loang ra, tạo nên các điểm tiếp xúc thường là nhỏ khác (do ảnh hưởng của lực ép ở đầu tác động) và để dòng điện lại chạy qua, thường là kim loại nóng chảy và chảy tan ra xung quanh. Cứ như thế diện tích nóng chảy thường là sẽ lớn dần và chỉ trong thời gian ngắn trên khắp các bề mặt tiếp xúc mối hàn thường là sẽ có một lớp mỏng kim loại lỏng bao phủ, cuối cùng thường là dùng một lực ép lớn ép lại. thường là Kim loại chảy, xỉ bẩn được đẩy ra ngoài và chi tiết hàn thường là được gắn chặt lại.
Cường độ dòng điện dùng cho phương pháp hàn này thường là khá nhỏ nên giá thành sẽ rẻ hơn so với hàn điện trở. Quá trình hàn thường là cũng được tiến hành nhanh hơn hàn điện trở, có thể bỏ qua bước là sạch mặt hàn mà vẫn cho chất lượng mối hàn thường là đạt tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, phương pháp hàn này thường là cũng cho phép hàn với những loại thép đặc biệt trong khi hàn thường là điện trở không thể.
Phương pháp hàn chảy thường là liên tục thường sử dụng để hàn các thanh ray, các dụng cụ, ống mỏng, đồ dập bằng thép và thường là một số loại vật liệu khác. Ví dụ khi hàn thép với đồng…trong trường hợp công suất của máy không đủ thường là để tiến hành hàn chảy liên tục thì có thể chuyển sang thường là hàn chảy gián đọan. Phương pháp này được thực hiện bằng cách lần lượt đưa vật hàn thường là tiếp xúc với nhau, sau đó tách chúng rời nhau khoảng nhỏ rồi lại áp lại gần, mỗi lần làm như vậy sẽ hình thành hồ quang). Cứ như vậy vài lần cho đến khi đạt tới độ nóng chảy cần thiết, hãy ép nhanh những chi tiết đó lại với nhau, phần kim loại chảy sẽ bị đẩy ra ngoài và tạo ra ba via.
hàn giáp mối



Hàn điểm
Hàn điểm là một dạng hàn rất phổ biến trong hàn điện tiếp xúc, trong đó chi tiết hàn được ép chồng lên nhau và được hàn trên từng điểm riêng biệt. Các chi tiết hàn được ép lại với nhau bằng hai điện cực, tiếp đó nung nóng chỗ tiếp xúc của chi tiết hàn đạt đến mức làm chảy một lớp mỏng trên bề mặt điểm tiếp xúc, còn khu vực liền kề đó thì nằm trong trạng thái dẻo, cuối cùng ngắt điện, ép hai điện cực lại và mối hàn tạo thành.
Khi hàn công suất sẽ phụ thuộc chính vào chiều dày của vật hàn và kim loại hàn. Muốn hàn tốt cần phải có một lực ép thích hợp. Lực ép sẽ phụ thuộc vào chiều dày của vật hàn và các thành phần hóa học có trong kim loại.

Phương pháp hàn điểm dùng máy hàn TIG được ứng dụng rộng rãi trong những ngành như: chế tạo oto,  toa xe, máy bay… chủ yếu cho những loại vật liệu tấm vật liệu thép Cacbon, thép không gỉ, thép hợp kim thấp, thép tấm bằng hợp kim của đồng, nhôm.
Hàn đường
Hàn đường (hay hàn lăn) chủ yếu dùng để hàn các loại vật liệu tấm với chiều dày không vượt quá 4mm. Phương pháp hàn này khác với hàn điểm ở chỗ người ta thay thế các điện cực thanh bằng điện cực con lăn. Khi con lăn quay, vật hàn nằm giữa 2 con lăn, nhờ đó đường hàn thường rất kín, các chất lỏng và chất khí không thể lọt qua được.
Công suất sử dụng khi hàn đường tùy thuộc vào kim loại, chiều dày của nó và cả tốc độ hàn. Lực ép không nên vượt quá 3000 - 5000N, vì lực ép lớn sẽ khiến cho con lăn nhanh mòn. Vật liệu của con lăn hàn đường gần giống như là điện cực thanh trong hàn điểm.

Hàn đường được dùng để hàn các điểm, bình chứa, ống và những chi tiết yêu cầu mối hàn khép kín, được làm bằng thép hoặc các loại hợp kim màu.

Nhận xét